10 cơ chế phòng vệ tâm lý nên biết

Cơ chế phòng vệ âm lý chính là việc cơ thể tự thúc đẩy tạo một suy nghĩ hay tính cách để bảo vệ bạn. Tinh thần tổn thương sẽ làm bạn kiệt quệ và ảnh hưỡng sức khỏe nghiêm trọng. Nên cơ chế phòng vệ tâm lý chính là một người bảo vệ bạn từ những áp lực tinh thần. Nhưng việc lạm dụng nó quá nhiều cũng không tốt. Sau đây ta hãy điểm qua 10 cơ chế phòng vệ tâm lý mà bạn nên biết .

1 Cơ chế phòng vệ tâm lý Đổi chỗ. Displacement

Bạn đã bao giờ có một ngày làm việc cực kỳ tệ hại, bạn về nhà và trút hết nỗi bực dọc lên gia đình và bạn bè? Nếu vậy bạn đã trải nghiệm cơ chế tự vệ tâm lý của bản ngã có tên là Đổi chỗ.

Đổi chỗ là trút nỗi bực dọc, cảm xúc, thôi thúc đè nén của chủ thể lên những người hoặc những vật ít có khả năng đe dọa đến chủ thể hơn
Lối hành xử hung hăng là một ví dụ thường gặp do cơ chế tự vệ đổi chỗ gây ra. Thay vì bộc lộ cơn giận theo một cách thức có thể đưa đến hệ quả tiêu cực (như cãi lại sếp), chúng ta thể hiện sự tức tối lên một người hay một vật không gây đe dọa lên chúng ta (như bạn đời, con cái, hay thú cưng).

2 Cơ chế phòng vệ tâm lý Chối bỏ. Denial

co-che-phong-ve-tam-ly
Cơ chế phòng vệ tâm lý chối bỏ

a. Định nghĩa chối bỏ

Chối bỏ có thể là một trong những cơ chế tự vệ thường gặp nhất, được sử dụng để mô tả những tình huống khi con người ta không thể đối mặt với hiện thực hoặc thừa nhận một sự thật (ta hay nói “Anh ấy đang chối bỏ sự thật.”) Chối bỏ là thẳng thừng từ chối thừa nhận hoặc không nhận ra điều gì đó đã xảy ra hoặc đang hiển hiện. Người nghiện ma túy và chất có cồn thường chối bỏ sự thật rằng mình đang gặp vấn đề, còn những nạn nhân của một sự kiện gây sang chấn lại chối bỏ sự thật, nhất quyết cho rằng sự kiện này chưa hề xảy ra.

Chối bỏ giúp bảo vệ bản ngã khỏi những thứ mà chủ thể không thể đối phó. Mặc dù chối bỏ có thể giúp ta tránh được nỗi đau hoặc sự lo âu nhưng nó cũng khiến ta phải tốn kha khá năng lượng. Vì vậy, chủ thể cũng sẽ áp dụng một số cơ chế tự vệ khác để giúp ngăn những cảm xúc khó chấp nhận này không đi vào vùng ý thức.

b. Cách thức hoạt động

Trong nhiều trường hợp, dù đã có bằng chứng rõ rằng chỉ ra một sự thật nào đó hiển hiện nhưng chủ thể sẽ tiếp tục chối bỏ sự thật hay sự tồn tại của nó vì chủ thể không thể đối mặt với sự khó chịu nó mang lại.

Chối bỏ có thể là sự khước từ thẳng thừng sự tồn tại của hiện thực hoặc một sự thật nào đó. Cũng có khi, việc một người thừa nhận sự hiện hữu của một điều gì đó nhưng lại giảm thiểu tầm quan trọng của nó cũng gọi là chối bỏ. Đôi lúc con người ta sẽ chấp nhận sự thật và sự nghiêm trọng của sự thật đó nhưng họ sẽ vẫn tiếp tục chối bỏ trách nhiệm và thay vào đó lại đổ lỗi cho người hoặc một thế lực bên ngoài nào khác.

Nghiện là một trong số những ví dụ dễ thấy nhất về sự chối bỏ. Người gặp vấn đề lạm dụng chất thường sẽ thẳng thường chối bỏ việc mình đang có những hành vi không tốt. Trong một số trường hợp khác, họ có thể thừa nhận bản thân có sử dụng ma túy hoặc chất có cồn nhưng lại tuyên bố rằng việc sử dụng chất này của họ không phải vấn đề và cũng không gây ra vấn đề gì.

3 Cơ chế phòng vệ tâm lý Đè nén và đàn áp. Repression and Suppression

co-che-phong-ve-tam-ly
Cơ chế phòng vệ tâm lý đè nén và đàn áp

Đè nén cũng là một cơ chế tự vệ phổ biến khác. Đè nén giúp giữ thông tin không xâm nhập vào vùng ý thức. Tuy nhiên, những ký ức này không biến mất đi; chúng sẽ tiếp tục gây ảnh hưởng lên hành vi. Ví dụ, một người đè nén ký ức bị bạo hành khi còn nhỏ có thể sẽ gặp khó khăn trong việc tạo dựng những mối quan hệ sau này khi lớn lên.

Đôi khi, ta ý thức được mình đang làm điều này bằng cách dồn ép những thông tin không mong muốn ra khỏi ý thức, hay còn gọi là đàn áp. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, việc loại bỏ ký ức gây lo âu này ra khỏi ý thức thường xuất hiện trong vô thức.

4 Cơ chế phòng vệ tâm lý Thăng hoa. Sublimation

Thăng hoa là một cơ chế tự vệ giúp ta bộc lộ những thôi thúc không được chấp nhận bằng cách cải biến những hành vi này theo cách thức dễ được chấp nhận hơn. Ví dụ, một người trải nghiệm cơn giận tột độ có thể sẽ lao vào chơi đấm bốc, lấy đó là phương tiện để trút giận. Freud tinh rằng thăng hoa chính là dấu hiệu của sự trưởng thành, giúp con người ta vận hành một cách bình thường, được đông đảo xã hội chấp nhận.

5 Phóng chiếu. Projection

Phóng chiếu là một cơ chế tự vệ khi chủ thể lấy những cảm xúc hay phẩm chất khó chấp nhận của bản thân và gán chúng lên người khác. Ví dụ, nếu bạn cực kỳ không ưa một ai đó, bạn có thể tin rằng người đó cũng chẳng ưa gì bạn. Phóng chiếu cho phép chủ thể bộc lộ những khao khát hoặc thôi thúc ra ngoài nhưng bản ngã không nhận ra sự thể hiện này, chính vì vậy lo âu của chủ thể mới nhờ đó mà giảm xuống.

6 Tri thức hóa. Intellectualization

Trí thức hóa giúp giảm lo âu thông qua việc suy nghĩ về những sự kiện theo một phong cách chuyên môn, lạnh lùng không cảm tính. Cơ chế tự vệ này cho phép chúng ta tránh suy nghĩ về những khía cạnh căng thẳng, quá “đậm đà” cảm xúc của tình huống, mà thay vào đó, chỉ tập trung vào yếu tố kiến thức. Ví dụ, một người vừa bị chẩn đoán mắc một căn bệnh nan y sẽ tập trung tìm hiểu mọi kiến thức về căn bệnh để tránh không cảm thấy đau buồn và vẫn duy trì được khoảng cách giữa mình với hiện thực đang diễn ra.

7 Hợp lý hóa. Rationalization

Hợp lý hóa là cơ chế tự vệ diễn ra khi chủ thể giải thích một hành vi hay cảm xúc không được chấp nhận theo một cách thức hợp lý, có lô-gíc, tránh né những lý do thực sự đằng sau hành vi. Ví dụ, một người bị người mình thích từ chối không đi hẹn hò cùng có thể sẽ hợp lý hóa tình huống này bằng cách cho rằng mình cũng chẳng bị người kia thu hút gì lắm. Một sinh viên có điểm bài kiểm tra tệ hại có thể sẽ đổ lỗi cho người hướng dẫn thay vì thừa nhận mình thiếu sự chuẩn bị.

Hợp lý hóa không chỉ giúp ngăn ngừa lo âu, nó còn giúp bảo vệ lòng tự trọng và cách ta nhìn nhận về bản thân. Khi đối mặt với thất bại hoặc thành công, con người ta có xu hướng quy thành tích mình đạt được cho những phẩm chất và kỹ năng của bản thân, còn nếu gặp thất bại thì đó là lỗi do người khác hoặc những thế lực bên ngoài.

8 Thoái lui. Regression

Khi đối mặt với những sự kiện gây căng thẳng, con người ta đôi khi lại ruồng bỏ những chiến lược đối phó mình vốn nên làm và quay trở lại với những hành vi trước đây. Anna Freud gọi đây là cơ chế tự vệ thoái lui, là khi con người ta thể hiện những hành vi bị cắm chốt từ một giai đoạn phát triển tâm lý tính dục nào đó. Ví dụ, một người bị cắm chốt ở giai đoạn phát triển tâm lý tính dục ban đầu có thể sẽ khóc lóc hoặc hờn dỗi khi nghe được thông tin không mấy dễ chịu.

Hành vi liên quan đến thoái lui có thể biến động rất nhiều tùy thuộc vào việc chủ thể bị cắm chốt ở giai đoạn nào. Một người bị cắm chốt tại giai đoạn miệng có thể bắt đầu ăn uống hoặc hút thuốc quá mức, hoặc có thể có những lời nói hung hăng. Cắm chốt ở giai đoạn này có thể đưa đến tình trạng ngăn nắp hoặc bừa bộn quá mức.

9. Hình thành phản ứng ngược. Reaction Formation

co-che-phong-ve-tam-ly
Cơ chế phòng vệ tâm lý phản ứng ngược

Hình thành phản ứng làm giảm lo âu bằng cách thể hiện những cảm xúc, thôi thúc hay hành vi theo hướng trái ngược. Một ví dụ về cơ chế này là việc đối xử với người bạn cực kỳ không ưa theo một cách quá mức thân thiện nhằm che dấu cảm xúc thực của bản thân. Tại sao người ta lại hành xử như vậy? Theo Freud, họ đang sử dụng cơ chế tự vệ hình thành phản ứng ngược nhằm che dấu cảm xúc thật bằng việc hành xử ngược lại hoàn toàn.

10 Các cơ chế phòng vệ tâm lý khác. Other Defense Mechanisms

Kể từ lần đầu tiên Freud mô tả những cơ chế tự vệ tâm lý ban đầu, những nhà nghiên cứu khác đã tiếp tục mô tả những phương thức làm giảm lo âu khác.

a. Một số cơ chế phòng vệ tâm lý

– Quấy phá: Trong dạng tự vệ này, chủ thể ứng phó với căng thẳng bằng hành động cụ thể rõ ràng, hơn là chỉ phản ánh lại những cảm xúc nội tại.

– Liên kết: Tìm kiếm sự trợ giúp từ người khác.

– Hạn chế mục tiêu: Trong dạng tự vệ này, chủ thể sẽ chấp nhận điều chỉnh mục đích ban đầu của mình (ví dụ như chỉ trở thành một huấn luyện viên bóng rổ tại trường trung học thay vì là một vận động viên chuyên nghiệp)

– Vị tha: Thỏa mãn nhu cầu nội tại bằng cách giúp đỡ người khác.

– Né tránh: Từ chối xử lý hoặc đối mặt với những vật thể hoặc tình huống gây khó chịu.

– Đền bù: Thể hiện xuất sắc quá mức trong một lĩnh vực để bù lại cho thất bại trong lĩnh vực khác.

– Óc hài hước: Chỉ ra những khía cạnh hài hước hay châm biếm của một tình huống.

– Hung hăng thụ động: Gián tiếp thể hiện cơn giận.

– Mộng tưởng: Né tránh hiện thức bằng cách lui vào một nơi an toàn nào đó trong tâm trí.

– Làm lại: Cố tìm cách bù đắp cho những suy nghĩ, cảm xúc hay hành vi không phù hợp. Nếu bạn làm ai đó tổn thương, bạn có thể làm điều tốt cho họ để làm khuây khỏa bớt nỗi lo âu của mình.

b. Ý nghĩa của cơ chế phòng vệ tâm lý

Mặc dù các cơ chế tự vệ của tâm lý thường bị coi là những phản ứng tiêu cực, nhưng chúng ta đều cần chúng để tạm thời xua đi căng thẳng và bảo vệ lòng tự trọng trong những thời điểm then chốt, cho phép TA tập trung vào thứ cần thiết trong thời điểm đó. Sẽ có cơ chế này hữu ích hơn cơ chế kia. Ví dụ, sử dụng óc hài hước để vượt qua tình huống căng thẳng, gây lo âu có thể là một cơ chế tự vệ tốt giúp chủ thể thích nghi tốt hơn.

Kết luận

Một vài cơ chế tự vệ phổ biến đã trở thành một phần thường gặp trong ngôn ngữ thường nhật. Chúng ta có thể mô tả một người đang “chối bỏ” một vấn đề họ gặp phải. Khi một ai đó “ngựa quen đường cũ”, ta có thể gọi người này đang “thoái lui” về thời điểm ban đầu của sự phát triển.

Cần nhớ rằng các cơ chế tự vệ có thể vừa tốt vừa xấu. Chúng có thể có vai trò hữu ích giúp bảo vệ bản ngã khỏi căng thẳng và mang đến những lối thoát lành mạnh. Nhưng cũng có khi, những cơ chế này có thể kìm giữ bạn khiến bạn không thể đối mặt với hiện thực và có thể là một kiểu tự lừa dối bản thân.

Nếu bạn thấy mình đang lạm dụng một số cơ chế tự vệ nhất định và việc này gây ảnh hưởng tiêu cực lên đời sống của bạn thì hãy cân nhắc trao đổi thêm với bác sĩ, nhà tâm lý, hoặc những chuyên gia sức khỏe tâm thần khác để được trợ giúp. Cân nhắc thử làm các bài kiểm tra về cơ chế tự vệ của tâm lý để xem khả năng của mình đến đâu trong việc xác định những dạng tự vệ nào đang tồn tại.